Suy tĩnh mạch mạn tính, một nguyên nhân gây phù chân

Bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới là một nguyên nhân gây phù chân mà ít người biết đến. Khi biến chứng nặng, máu ứ trong lòng tĩnh mạch hình thành các cục máu đông, trôi về tim gây thuyên tắc động mạch phổi có thể gây tử vong.

Suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới là tình trạng tĩnh mạch chi dưới bao gồm cả hệ thống tĩnh mạch sâu, nằm trong các khối cơ và hệ thống tĩnh mạch nông nằm ngay dưới da bị giãn, hệ thống van tĩnh mạch bị giảm chức năng. Tình trạng này dẫn đến hiện tượng rối loạn về huyết động học làm cho máu ứ trệ trong lòng tĩnh mạch và trở về tim khó khăn.

Máu ứ nhiều trong tĩnh mạch làm chân bị sưng lên, hình thành các cục máu đông trong lòng tĩnh mạch và nếu điều trị không tốt các cục máu đông có thể trôi theo dòng máu về tim và gây thuyên tắc động mạch phổi gây nên một biến chứng có thể dẫn đến cái chết cho bệnh nhân.

Ở các nước tiên tiến như Châu Âu, Mỹ v.v..bệnh lý tĩnh mạch là bệnh rất thường gặp. Theo các thống kê ở Pháp, bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chiếm đến 1% ở nam giới và 4,5% nữ giới ở tuổi trưởng thành. Trong đó có hơn 70% là nữ và khoảng 35% ở những người đang làm việc.

Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có một thống kê đầy đủ về loại bệnh này. Tuy nhiên theo dự đoán của các chuyên gia Y Tế bệnh sẽ gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thay đổi nếp sống ở nước ta.

Theo một thống kê nghiên cứu đa trung tâm do Trường Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh chủ xướng: Đa số bệnh nhân 77,6% không hề biết về bệnh tĩnh mạch trước đó.

Điều này nói lên thực trạng về bệnh lý tĩnh mạch ở nước ta, trong đó chủ yếu là bệnh nhân ít quan tâm, ngại đi khám, thầy thuốc coi nhẹ và bỏ sót các triệu chứng. Trong đó 91,3% bệnh nhân không được điều trị và 8,7% được điều trị không đúng phương pháp chủ yếu là sử dụng các loại thuốc chữa triệu chứng như Aspirin, lợi tiểu hoặc các loại thuốc Đông y.

Tùy theo vị trí và nguyên nhân của tổn thương, bệnh giãn tĩnh mạch chi dưới được chia làm 4 nhóm:

 Bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới là một nguyên nhân gây phù chân mà ít người biết đến.

 - Nhóm giãn tĩnh mạch tiên phát hay còn gọi là giãn tĩnh mạch vô căn: trong nhóm này, ban đầu các tĩnh mạch bị giãn và dài ra sau đó các van tĩnh mạch mất dần chức năng.
- Nhóm giãn tĩnh mạch thứ phát, thường do viêm tĩnh mạch: Ở nhóm này các van tĩnh mạch bị mất chức năng trước, sau đó các tĩnh mạch mới bị giãn và dài ra.

- Giãn tĩnh mạch ở người có thai, do tác dụng của nội tiết tố sinh dục nữ và chèn ép của tử cung bị to ra khi có thai.

- Giãn tĩnh mạch bẩm sinh, nguyên nhân do bất thường của thành tĩnh mạch làm nghẹt tĩnh mạch sâu và dò động tĩnh mạch (dạng u máu hỗn hợp).

Biến chứng của giãn tĩnh mạch:

- Trước tiên là các biến chứng về rối loạn huyết động học: cẳng chân bệnh nhân bị sưng to, có triệu chứng đau buốt mặt sau cẳng chân, chuột rút về đêm.

- Nặng hơn, bệnh nhân có thể bị viêm tắc tĩnh mạch, chân nóng, sưng đỏ, các tĩnh mạch nông nổi rõ và viêm cứng.

- Giai đoạn cuối cùng có thể diễn tiến đến tình trạng giãn to toàn bộ hệ tĩnh mạch, các tĩnh mạch giãn rất lớn, ứ trệ tuần hoàn và rối loạn dinh dưỡng của da chân phía dưới gây viêm loét, nhiễm trùng rất khó điều trị.

- Một biến chứng rất nặng nề và cũng thường hay gặp của suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính là việc hình thành cục máu đông trong lòng tĩnh mạch. Cục thuyên tắc có thể tách rời khỏi thành tĩnh mạch, đi về tim và gây thuyên tắc động mạch phổi, một biến chứng rất nặng có thể đưa đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời.

Các yếu tố nguy cơ:

- Trên thực tế không phải người nào cũng có khả năng bị bệnh này, chỉ có một số người thuộc nhóm có nguy cơ cao là hay bị. Di truyền là mẫu số chung cho những bệnh nhân này, di truyền dễ bị mắc bệnh hơn những người khác, nguyên nhân do những thay đổi về enzyme trong mô liên kết.

- Nữ thường bị nhiều hơn nam do ảnh hưởng của nội tiết tố nữ, thai nghén lên thành tĩnh mạch, do phải đứng lâu trong một số ngành nghề đặc biệt như bán hàng, thợ dệt, do khối lượng cơ thấp hoặc dùng giày không thích hợp.

- Tăng trọng quá mức cũng là một yếu tố nguy cơ vì lực tác động từ phía trước để hút máu về bị giảm và các dòng trào ngược ly tâm phát sinh do gia tăng áp lực từ ổ bụng.

- Thuốc ngừa thai do sử dụng nội tiết tố nên cũng là một yếu tố nguy cơ như thai nghén.

- Phẫu thuật có thể gây ra biến chứng huyết khối tĩnh mạch và viêm tĩnh mạch nhất là những phẫu thuật vùng tiểu khung như phẫu thuật trong sản khoa và niệu khoa các thủ thuật khác như bó bột, bất động lâu trong gãy xương... Tuy nhiên gần đây tầm quan trọng của yếu tố nguy cơ này đã giảm bớt.

- Những bệnh ăn theo chế độ ăn kiêng nhiều chất bột, ít chất xơ hay bị táo bón cũng rất dễ bị giãn tĩnh mạch.

Làm thế nào để chẩn đoán?

Việc xác định chẩn đoán chủ yếu dựa vào khám lâm sàng bao gồm nhìn thấy những đoạn tĩnh mạch bị giãn, ngoằn ngoèo, da đổi màu, rối loạn dinh dưỡng, loét và sự xuất hiện của các u máu.

Sờ để biết được độ cứng của phần mềm, đặc biệt là vùng trước xương chày, so sánh cả hai bên. Ngoài ra có thể sờ thấy cả một đoạn tĩnh mạch cứng, phù nề, các cục thuyên tắc và xác định nhiệt độ của da.

Cuối cùng chẩn đoán được xác định bằng siêu âm Doppler màu mạch máu, với phương pháp này cho phép xác định được những rối loạn huyết động học, tình trạng của các van tĩnh mạch, mức độ giãn của tĩnh mạch và các cục thuyên tắc trong lòng mạch để từ đó có thái độ điều trị đúng đắn.

Siêu âm Doppler màu là một phương pháp chẩn đoán không xâm lấn, rất an toàn, cho kết quả ngay với mức độ chính xác từ 95-99%. Siêu âm Doppler màu tĩnh mạch cho phép thấy hình ảnh đoạn tĩnh mạch bị dãn, các van tĩnh mạch bị suy mất chức na

Điều trị bệnh suy tĩnh mạch mạn tính


Có nhiều phương pháp điều trị chính nhằm kiểm soát hay chặn đứng sự trào ngược, loại bỏ trào ngược từ các tĩnh mạch nhánh và từ các mạch nối, cuối cùng là ngăn ngừa sự tràn ngập mô kẽ do dịch thấm ra từ các vi quản.

- Phòng ngừa: Phương pháp này nhằm chặn đứng sự trào ngược và làm cho các lực tác động lên dòng chảy của tĩnh mạch được tốt hơn.

Bao gồm: Để chân cao khi nằm nghỉ, tập cơ mạnh hơn, tránh đứng hay ngồi lâu, mang vớ thun hay quấn chân bằng băng thun, sửa lại vị trí bàn chân đối với các dị tật, tránh béo phì, tập hít thở sâu, ăn chế độ có nhiều chất xơ để tránh táo bón...

Băng ép nhằm phục hồi áp suất chênh lệch giữa hai hệ thống tĩnh mạch nông và sâu thông qua hệ thống xuyên, giảm đường kính của lòng tĩnh mạch để tăng khả năng vận chuyển khi nghỉ ngơi cũng như khi gắng sức.

- Điều trị nội khoa với các thuốc làm bền thành mạch như Daflon, Rutin C, Veinamitol... Nhưng phần lớn chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của giãn tĩnh mạch. Một số thầy thuốc chuyên khoa còn áp dụng phương pháp tiêm gây xơ tại chỗ với các thuốc làm xơ hóa lòng mạch máu.

- Phẫu thuật với hai phương pháp chính: Lấy bỏ các tĩnh mạch nông bị giãn gọi là phương pháp Stripping bằng một dụng cụ chuyên dùng cho phép rút các tĩnh mạch như chúng ta làm lòng gà và phương pháp Chivas lấy các đoạn tĩnh mạch bị giãn của hệ thống xuyên, đây là phương pháp điều trị khá triệt để có tỷ lệ tái phát thấp nhất.

- Ngoài ra hiện nay người ta còn áp dụng phương pháp làm lạnh với Nitơ lỏng âm 90 độ C để làm nghẹt lòng tĩnh mạch qua một ống thông trong lòng tĩnh mạch, tuy nhiên phương pháp này cho tỷ lệ tái phát khá cao đến 30% các trường hợp.

Với một bệnh mạn tính, thành công của việc điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó quan trọng nhất ngoài việc chẩn đoán chính xác, điều trị hiệu quả mà còn phụ thuộc vào việc hiểu biết của bệnh nhân về tình trạng bệnh tật và tuân thủ theo điều trị cùng các vấn đề kiêng cữ trong điều trị.

Theo các chuyên gia về tĩnh mạch học trên Thế giới, khả năng tái phát của bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới là khá cao có thể lên đến trên 30%.

Nguyên nhân chủ yếu là do các bệnh nhân không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong điều trị như không uống thuốc đúng thời gian quy định, không chịu đeo vớ y khoa vì cảm thấy vướng víu khi hoạt động, không thay đổi chế độ làm việc và chế độ ăn uống giàu chất xơ ít chất bột đường... và không tham gia các hoạt động thể dục thể thao.

PGS TS.BS Nguyễn Hoài Nam - ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh

Theo Vietnamnet

Nguyên nhân và dấu hiệu của bệnh suy giãn tĩnh mạch chân

Theo Ths. BS Nguyễn Trung Anh, Trưởng khoa Khám bệnh, Bệnh viện Lão khoa Trung ương, ước tính khoảng 25 – 35% dân số Việt Nam mắc bệnh suy tĩnh mạch chân, phần lớn bệnh nhân là nữ giới, từ 35 tuổi trở lên.

Đây là bệnh phổ biến thường gặp, nhất là phụ nữ có sử dụng thuốc tránh thai, phụ nữ mang thai nhiều lần, những người làm việc trong môi trường nóng, phải đứng lâu hoặc ngồi lâu, ít vận động. Có đến 77,6% các bệnh nhân không biết mình mắc bệnh.

Biểu hiện ban đầu của bệnh là hay bị chuột rút, phù quanh mắt cá, mỏi chân, căng tức bắp chân… khiến người bệnh nhầm lẫn là bệnh loãng xương.

Suy giãn tĩnh mạch chân mạn tính thường ít nguy hiểm nhưng sẽ gây cho người mắc bệnh cảm giác khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, biến chứng của bệnh này là sự hình thành các cục máu đông trong lòng tĩnh mạch, các cục máu này có thể gây tắc mạch máu tại chỗ hoặc di chuyển theo dòng máu và gây tắc mạch chỗ khác, trong đó nguy hiểm nhất là tắc mạch phổi, có thể dẫn đến suy hô hấp và tử vong.
Vì vậy, theo khuyến cáo của bác sĩ, khi thấy chi dưới có nhiều tĩnh mạch nổi ngoằn ngoèo, người bệnh cần đi siêu âm để chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.

Bệnh suy giãn tĩnh mạch không nguy hiểm nhưng gây ảnh hưởng cuộc sống của người bệnh.

Nguyên nhân gây bệnh suy giãn tĩnh mạch

Bình thường các động mạch đưa máu đỏ ( chứa nhiều oxy và chất dinh dưỡng từ tim đến các mô) , tĩnh mạch đưa máu đen (nghèo oxy, ít dinh dưỡng) từ các mô về tim. Để đưa máu trở về tim, các tĩnh mạch ở chân của bạn phải làm việc chống lại trọng lực. Sự co thắt của các cơ ở chân của bạn và sự đàn hồi của thành tĩnh mạch giúp máu đến tim . Các van nhỏ trong tĩnh mạch của bạn hoạt động như một mái chèo và mở ra để máu chảy về phía tim của bạn sau đó đóng để ngăn chặn máu chảy ngược trở lại.

Khi các van tĩnh mạch này bị suy khả năng đưa máu về tim bị giảm sút và mỗi lần đóng van sẽ có một lượng máu chảy ngược lại dẫn đến ứ đọng máu đen ở vùng thấp nhất là chân. Tình trạng ứ máu này dẫn đến giãn tĩnh mạch và những rối loạn sinh hóa gây ra những triệu chứng của suy giãn tĩnh mạch.

Dấu hiệu của bệnh suy giãn tĩnh mạch chân

Suy Giãn tĩnh mạch là do suy và tổn thương những van tĩnh mạch đưa đến giãn tĩnh mạch. Người bệnh có những triệu chứng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và khả năng lao động như:

– Đau chân, nặng chân, mỏi chân khi đứng lâu hay ngồi nhiều.

- Phù chân: Thường thấy ở vùng mắt cá chân, bàn chân; có khi phù kín đáo hơn, chỉ cảm thấy mang giày dép chật so với bình thường.

- Chuột rút (vọp bẻ), cảm giác tê chân, châm chích, như có kiến bò vùng cẳng chân

- Gân xanh: tĩnh mạch có thể nổi li ti từng mảng lớn nhỏ khác nhau, màu xanh hoặc tím đỏ (tĩnh mạch hình mạng nhện) , đôi chỗ giống như hình pháo bông hay nổi to ngoằn ngoèo như con giun dưới da.

- Da vùng chân thay đổi màu sắc, ngứa, chàm rất khó chữa lành.

Các triệu chứng xuất hiện tùy vị trí tổn thương (suy tĩnh mạch nông hay sâu) và mức độ nặng của bệnh. Những người bị suy tĩnh mạch nông có thể thấy nổi gân xanh nhiều nhưng lại ít có những triệu chứng khác , còn người bị suy tĩnh mạch sâu có thể không thấy nổi gân xanh nhưng những triệu khác đôi khi rất nặng nề. Vì vậy ta không nên dựa vào tình trạng nổi gân xanh mà đánh giá mức độ nặng nhẹ của bệnh.

Biến chứng của suy giãn tĩnh mạch: gây viêm loét, nhiễm trùng rất khó điều trị. Xuất hiện cục máu đông trong tĩnh mạch gây viêm tắc tĩnh mạch. Tắc mạch máu phổi là một biến chứng rất nặng có thể dẫn đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời. Lâu dần bệnh sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng đi lại.

Theo Phạm Minh/VnMedia.vn



Người bệnh suy tĩnh mạch nên đi bộ

TT - Đi bộ là môn thể dục được nhiều người chọn lựa. Tuy nhiên, không ít người bệnh suy tĩnh mạch chân đã bỏ thói quen đi bộ vì nghe lời khuyên của người khác hay của bác sĩ điều trị.


Vậy người mắc bệnh này nên hay không nên đi bộ?

Nguyên nhân khiến tĩnh mạch bị suy

Hệ tĩnh mạch có cấu tạo như mạng lưới gồm các cấu trúc hình ống. Các tĩnh mạch nhỏ ở xa sẽ dẫn máu về các tĩnh mạch lớn hơn và sau đó sẽ đổ về tim.

Bình thường trong lòng tĩnh mạch chân có các van, được cấu tạo bởi 2 lá van giống như túi, với mặt lõm hướng lên trên. Mỗi lá van có một phần dính vào thành tĩnh mạch, phần còn lại tự do trong lòng tĩnh mạch. Hệ thống tĩnh mạch chân gồm các tĩnh mạch nông, tĩnh mạch sâu và các tĩnh mạch xuyên.

Khi chúng ta đứng thẳng, máu trong tĩnh mạch phải thắng trọng lực để chảy về tim. Để làm được điều này, các cơ phải ép các tĩnh mạch sâu ở chân, ở bàn chân, đồng nhịp với hoạt động đóng mở của các van tĩnh mạch.

Khi cơ ở chân co, các van trong tĩnh mạch mở ra. Khi cơ thả lỏng, các van đóng lại. Điều đó giúp máu không chảy ngược trở lại phía dưới. Toàn bộ tiến trình đem máu trở về tim trên gọi là bơm tĩnh mạch. Với phương thức hoạt động như thế, các van tạo nên hệ thống dòng chảy một chiều từ dưới lên trên và từ nông vào sâu.

Bệnh suy tĩnh mạch được gây ra bởi sự hư hại của các van trong lòng tĩnh mạch. Khi đó, máu chảy ngược xuống dưới theo chỗ hở của van tĩnh mạch, làm ứ đọng và tăng áp lực tĩnh mạch. Tĩnh mạch sâu có thể chịu đựng tốt với sự tăng áp lực, trái lại tĩnh mạch nông sẽ giãn to ra và viêm.

Hiện tượng tăng áp lực tĩnh mạch do ứ đọng là nguồn gốc gây nên các triệu chứng đau nhức và khó chịu cũng như tình trạng giãn tĩnh mạch nông, phù chân, thay đổi da và lở loét. Do đó các phương pháp điều trị suy tĩnh mạch đều hướng tới việc khắc phục tình trạng tăng áp lực tĩnh mạch do ứ đọng.

Đi bộ tác động tốt đến tĩnh mạch

Thể tích và áp lực trong tĩnh mạch sẽ thay đổi khi đi bộ. Trong tư thế đứng yên, với bàn chân tiếp xúc với mặt đất, sẽ không có dòng chảy tĩnh mạch.

Tuy nhiên, khi gót chân được nhấc lên cao, máu từ đám rối tĩnh mạch ở phía dưới gót chân và mặt lòng bàn chân sẽ được đẩy lên các tĩnh mạch sâu của cẳng chân. Sau đó, hoạt động co cơ cẳng chân đẩy dòng máu về tĩnh mạch của vùng đùi và cứ như thế, dòng máu sẽ chảy về tĩnh mạch cao hơn và về tim.

Sự co cơ khi đi bộ giúp bơm tĩnh mạch hoạt động hiệu quả. Lực ép của cơ vào hệ tĩnh mạch sâu đo được khi chân đang vận động tích cực cao hơn rất nhiều so với lúc đứng yên. Điều này giúp máu đẩy mạnh về tim và giảm tình trạng ứ đọng, cũng như giảm áp lực trong hệ tĩnh mạch nông.

Trừ một số trường hợp đặc biệt, người có bệnh suy tĩnh mạch chân nên đi bộ. Việc đi bộ đều đặn sẽ cải thiện các bơm tĩnh mạch, giúp đẩy máu về tim tốt hơn, làm giảm áp lực tĩnh mạch do ứ đọng. Nếu người bệnh chưa có thói quen đi bộ thì nên bắt đầu từ từ, sau đó tăng dần thời gian và quãng đường. Ở những người loét chân do suy tĩnh mạch, vận động cổ chân sẽ bị hạn chế, do đó cần được vật lý trị liệu cổ chân và liệu pháp giảm đau trước khi đi bộ.


Trong thực nghiệm đánh giá sự thay đổi áp lực tĩnh mạch nông khi đi bộ, người ta luồn kim nhựa vào lòng tĩnh mạch nông ở bàn chân của một người và nối với một cột nước, cho thấy: Hình trái, khi đứng yên, cột nước dâng cao ngang tim. Hình phải: khi di chuyển cổ chân liên tục, cột nước giảm xuống. Điều này phản ánh việc đi bộ tốt cho người mắc bệnh suy tĩnh mạch.

Một nghiên cứu gần đây đã cập nhật trong y văn, cho biết những người suy tĩnh mạch mãn tính đi bộ ít hơn 10 phút trong một ngày có nguy cơ loét chân cao hơn nhóm người hoạt động thể dục tích cực. Ngoài ra, khuyến cáo của các hiệp hội phẫu thuật mạch máu trên thế giới đều khuyên bệnh nhân suy tĩnh mạch nên đi bộ.

BS LÊ THANH PHONG


Đi bộ có lợi cho người suy giãn tĩnh mạch

Đi bộ có lợi cho người bị suy tĩnh mạch, máu được đẩy mạnh về tim làm giảm tình trạng ứ đọng và bớt áp lực trong hệ tĩnh mạch nông.

Theo bác sĩ Lê Thanh Phong, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM, suy tĩnh mạch chi dưới rất thường gặp. Đây là một bệnh mạn tính ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân. Để điều trị hiệu quả cần phối hợp nhiều biện pháp, trong đó việc thay đổi lối sống đóng vai trò nền tảng.

Đi bộ là môn thể dục nhẹ nhàng mang lại nhiều lợi ích nên được hầu hết người dân lựa chọn tập luyện. Đa phần bệnh nhân sau khi bị suy giãn tĩnh mạch đã bỏ thói quen đi bộ, thậm chí một số người không dám vận động vì sợ làm bệnh nặng thêm. Ngay cả các bác sĩ chuyên khoa cũng có ý kiến khác nhau về vấn đề này.


(Đi bộ là môn thể dục nhẹ nhàng mang lại nhiều lợi ích nên được hầu hết người dân lựa chọn tập luyện.)

Bác sĩ Phong giải thích hệ tĩnh mạch có cấu tạo như một mạng lưới gồm các cấu trúc hình ống. Các tĩnh mạch nhỏ ở xa sẽ dẫn máu về tĩnh mạch lớn hơn, sau đó đổ về tim. Trong lòng tĩnh mạch chi dưới có các van. Van được cấu tạo bởi 2 lá van giống như chiếc túi, mặt lõm hướng lên trên. Một phần lá dính vào thành tĩnh mạch, phần còn lại tự do trong lòng mạch.

Hệ thống tĩnh mạch chi dưới bao gồm các tĩnh mạch nông, sâu và xuyên. Tĩnh mạch nông nằm sát dưới da. Tĩnh mạch sâu nằm sâu trong các khoang cơ của chi. Các nhánh tĩnh mạch xuyên nối từ hệ thống tĩnh mạch nông đến tĩnh mạch sâu.

Khi ta đứng thẳng, máu trong tĩnh mạch phải thắng trọng lực mới có thể chảy về tim. Để làm được điều này, các cơ phải ép các tĩnh mạch sâu ở chân và bàn chân đồng nhịp với hoạt động đóng mở của các van tĩnh mạch. Khi cơ ở chân co, các van trong tĩnh mạch sẽ mở ra. Khi cơ thả lỏng, van đóng lại, ngăn không cho máu bên trên chảy ngược xuống dưới. Toàn bộ tiến trình đem máu trở về tim như vậy gọi là bơm tĩnh mạch. Với phương thức hoạt động như thế, các van tạo nên hệ thống dòng chảy một chiều từ dưới lên trên và từ nông vào sâu.

Bệnh suy tĩnh mạch xảy ra khi các van trong lòng tĩnh mạch hư và không thể khép kín. Khi đó, máu chảy ngược xuống dưới theo chỗ hở của van tĩnh mạch, làm ứ đọng và tăng áp lực tĩnh mạch. Tĩnh mạch sâu có thể chịu đựng tốt khi có tình trạng tăng áp lực, trong khi tĩnh mạch nông vốn được bao quanh bởi mô liên kết lỏng lẻo sẽ giãn to ra và viêm.

Hiện tượng máu ứ đọng làm tăng áp lực tĩnh mạch, gây đau nhức, khó chịu, giãn tĩnh mạch nông, phù chân, thay đổi tình trạng da và lở loét. Chính vì thế các phương pháp điều trị suy tĩnh mạch đều hướng tới mục tiêu khắc phục tình trạng tăng áp lực tĩnh mạch do ứ đọng.

Đi bộ tác động như thế nào đến tĩnh mạch

Thể tích và áp lực trong tĩnh mạch sẽ thay đổi khi đi bộ. Ở tư thế đứng yên, bàn chân tiếp xúc với mặt đất sẽ không có dòng chảy tĩnh mạch. Khi gót chân được nhấc lên cao, máu từ đám rối tĩnh mạch phía dưới gót chân và lòng bàn chân (đám rối Bejar) sẽ được đẩy lên các tĩnh mạch sâu của cẳng chân. Sau đó, động tác co cơ cẳng chân sẽ đẩy dòng máu về tĩnh mạch của vùng đùi. Cứ như thế, dòng máu sẽ chảy về tĩnh mạch cao hơn, rồi về tim.

Sự co cơ khi đi bộ sẽ giúp bơm tĩnh mạch hoạt động hiệu quả. Lực ép của cơ vào hệ tĩnh mạch sâu đo được khi đang vận động tích cực cao hơn rất nhiều so với lúc đứng yên. Từ đó giúp máu được đẩy mạnh về tim, làm giảm tình trạng ứ đọng cũng như áp lực trong hệ tĩnh mạch nông.

Trong thực nghiệm đánh giá sự thay đổi áp lực tĩnh mạch nông khi đi bộ, người ta luồn một kim nhựa vào lòng tĩnh mạch nông ở bàn chân của người và nối kim với một cột nước. Ở tư thế đứng yên, cột nước dâng cao đến ngang tim. Khi gấp duỗi cổ chân liên tục, cột nước vơi xuống giữa 50-60%. Thí nghiệm mô phỏng hoạt động đi bộ này cho thấy áp lực trong hệ tĩnh mạch nông giảm xuống đáng kể khi di chuyển.

Như vậy việc đi bộ giúp đẩy máu từ hệ tĩnh mạch sâu về tim tốt hơn, làm giảm áp lực của hệ tĩnh mạch nông. Nhờ đó giảm các triệu chứng và biểu hiện lâm sàng của bệnh suy tĩnh mạch.

Hầu hết bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch đều cho biết cảm thấy dễ chịu hơn sau một thời gian đi bộ và thay đổi lối sống. Như trường hợp chị Vân bị suy tĩnh mạch gây đau nhức và khó chịu 2 chân, đã chữa trị cách đây 2 năm nhưng không thuyên giảm. Gần đây chị kết hợp điều trị và thay đổi lối sống, tập đi bộ theo tư vấn của bác sĩ, chỉ sau khoảng thời gian ngắn, các cơn đau giảm hẳn. Bệnh nhân tiếp tục đi bộ và leo cầu thang mỗi ngày thì các triệu chứng cải thiện rõ rệt.

Nghiên cứu gần đây được cập nhật trong y văn cho thấy những người suy tĩnh mạch mạn tính đi bộ ít hơn 10 phút mỗi ngày có nguy cơ loét chân cao hơn nhóm duy trì hoạt động thể dục tích cực trên 10 phút. Các hiệp hội phẫu thuật mạch máu trên thế giới đều khuyến cáo bệnh nhân suy tĩnh mạch nên đi bộ.

Lưu ý: Nếu người bệnh chưa có thói quen đi bộ nên bắt đầu từ từ, sau đó tăng dần thời lượng và quãng đường. Giai đoạn đầu, có thể sẽ thấy khó chịu hoặc đau chân , nhưng về sau sẽ cải thiện dần.Đi bộ cần sự di chuyển linh hoạt của cổ chân mới mang lại hiệu quả cao. Những người bị loét chân do suy tĩnh mạch vận động cổ chân sẽ bị hạn chế nên cần được vật lý trị liệu cổ chân và liệu pháp giảm đau trước khi đi bộ./.

Theo VnExpress

PHÂN BIỆT GIỮA SUY TĨNH MẠCH VÀ VIÊM TẮC ĐỘNG MẠCH CHI DƯỚI

Suy giãn tĩnh mạch

Suy giãn tĩnh mạch chân hay còn gọi là suy giãn tĩnh mạch chi dưới hay suy van tĩnh mạch chi dưới là thuật ngữ chỉ sự suy giảm chức năng đưa máu trở về tim của hệ thống tĩnh mạch nằm ở vùng chân dẫn đến hiện tượng máu ứ đọng lại sẽ gây ra những biến đổi về huyết động và biến dạng tổ chức mô xung quanh

Dấu hiệu nhận biết:

- Nhức mỏi, nặng chân, tê chân… các biểu hiện này sẽ nặng hơn vào buổi chiều tối
- Phù chân, tê dị cảm… phù nhiều vùng mắt cá chân, bàn chân.
- Cảm giác kiến bò, vọp bẻ (chuột rút) về ban đêm...
- Các tĩnh mạch nhỏ li ti xuất hiện vùng mắt cá và bắp chân, giãn lớn các tĩnh mạnh nông.
- Có thể dẫn đến các biến chứng khó chữa như chàm da, loét chân không lành (nhất là ở người già), chảy máu , viêm tĩnh mạch nông huyết khối, huyết khối tĩnh mạch sâu...



Viêm tắc động mạch chi dưới

Bệnh động mạch chi dưới là tình trạng hẹp/tắc lòng động mạch chậu, đùi, khoeo, cẳng và bàn chân do vữa xơ động mạch hoặc viêm nội mạc động mạch, làm giảm dòng máu nuôi phần chi phía dưới vị trí tổn thương.

Dấu hiệu nhận biết:

- Đau mỏi và co cứng bắp chân, đùi, hoặc mông khi đi bộ: phải dừng lại, ngồi nghỉ một lúc mới có thể tiếp tục đi được.

Hiện tượng đó lặp lại sau một khoảng cách đi bộ nhất định. Khoảng cách đó ngắn dần chứng tỏ bệnh đang tiến triển nặng lên; đau bàn, ngón chân liên tục, kể cả khi nghỉ. Bệnh nhân thường mất ngủ, mệt mỏi vì đau chân.

- Da chân tái và lạnh; loét và hoại tử các ngón chân, có thể cả bàn chân, kèm theo cảm giác đau liên tục, thuốc giảm đau không có tác dụng; hoặc bệnh nhân có thể không có triệu chứng gì nếu bệnh ở giai đoạn sớm.

Khi nghi ngờ về các biểu hiện của mình, bạn nên sớm đến phòng khám để điều trị kịp thời, tránh những đáng tiếc xảy ra!

Luyện tập thể dục đối với người bệnh suy tĩnh mạch

Theo các chuyên gia trên thế giới tập thể dục thường xuyên là một trong những phương pháp được đề nghị để điều trị và phòng ngừa bệnh suy giãn tĩnh mạch. Khị tập thể dục sẽ làm tăng lưu lượng máu trong cơ thể, làm săn chắc cơ vùng đùi và cơ vùng cẳng chân giúp cải thiện  phòng ngừa bệnh suy giãn tĩnh mạch. Điều quan trọng là bạn có biết chuẩn bị và tập như thế nào để tạo lợi ích thật sự hay không?

Không phải tất cả các bài tập đều tốt cho người bệnh. Người bị suy giãn tĩnh mạch nên chú ý đến những việc sau:


NHỮNG ĐIỀU "KHÔNG NÊN" LÀM:

Những bài tập gắng sức nhiều và làm tăng quá nhiều áp lực lên đôi chân của bạn: VD: Chạy, nâng tạ đứng, chơi thể thao nặng, đứng lâu , tập aerobic trên 30 phút mỗi lần…

Những động tác gập gối lâu: VD tư thế ngồi hoa sen trong YOGA, ngồi chéo chân trong thời gian lâu, ngồi chồm hổm…Những tư thế này sẽ làm tăng lượng máu ứ đọng ở vùng chân và làm tăng áp các tĩnh mạch.

Đừng nín thở khi tập luyện. Khi nâng tạ, hầu hết mọi người có phản xạ nín thở. Nín thở sẽ làm tăng áp lực máu. Và điều này rất tệ hại nếu bạn bị giãn tĩnh mạch. Hãy nhớ khi nhấc vật nặng lên thì thở ra và hít vào khi hạ xuống.

NHỮNG ĐIỀU NÊN LÀM:


Đi bộ mỗi ngày: Đi bộ thường xuyên mỗi ngày ít nhất là 30 phút, thời gian này có thể cộng dồn. Đây là cách tập luyện rất tốt cho người bị suy giãn tĩnh mạch.

Bơi lội: Đây là môn thể thao thích hợp và mang nhiều lợi ích cho người bị suy giãn tĩnh mạch.

Bài tập đưa chân ngang hoặc cao hơn người  bạn: Hãy nhớ chọn những bài tập nào mà khi tập đôi chân bạn phải ngang người hoặc cao hơn tim của bạn.  VD Cử động chân trên giường khi bạn nằm, nằm và làm động tác đạp xe đạp trên không, khi ngồi nếu được hãy đặt chân của bạn ngang với mông.

Hãy vận động chân và cổ chân bất cứ lúc nào bạn có điều kiện. Bạn nhớ co duỗi cẳng chân, xoay nhẹ vùng cổ chân mắt cá chân, Hãy giữ  chân bạn luôn chuyển động khi có thể.

Hãy thở ra hít vào đều đặn khi tập thể dục. Sự di chuyển của cơ bụng giúp máu lưu thông. Điều này giúp giảm áp lực cho các tĩnh mạch của bạn. Đây là mẹo nhỏ giúp bạn giảm nguy cơ bị suy giãn tĩnh mạch.khi tập thể dục.

Hãy mang vớ ép y khoa khi bạn tập luyện.

Dân văn phòng và bệnh suy tĩnh mạch

Tục ngữ có câu: “ nhất dáng, nhì da” nên dép gót cao là sự lựa chọn không thể thiếu đối với phái đẹp. Nhưng  đó là  điều kiện làm cho máu dồn xuống 2 chân, gây tăng áp lực trong các tĩnh mạch ở chân. Lâu ngày gây tổn thương các van tĩnh mạch một chiều. Khi các van này bị suy yếu sẽ giảm khả năng ngăn chặn luồng máu chảy xuống dưới do tác dụng của trọng lực, dẫn đến ứ máu ở 2 chân gây suy giãn tĩnh mạch.


 Theo thống kê tỷ lệ mắc bệnh suy giãn tĩnh mạch ở nữ giới là: 57%, nam giới là 26%.Đó là do tình trạng tăng mạnh các hormone nữ như estrogene, progesteron và vì độ co giãn của các cơ ở thành tĩnh mạch phái nữ yếu hơn nam. Tỷ lệ mắc căn bệnh này ở dân văn phòng ngày càng cao.

Dân văn phòng có tư thế làm việc đứng hay ngồi tại chỗ,ít vận động, đi dép gót cao, mặc quần áo bó sát là nguyên nhân dẫn đến các căn bệnh: béo bụng, thừa cân, táo bón, suy giãn tĩnh mạch...

NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY SUY TĨNH MẠCH Ở DÂN VĂN PHÒNG:

1.Thừa cân làm cho đôi chân tội nghiệp của bạn chịu một sức nặng, áp lực lớn làm cho tĩnh mạch dễ dàng suy giãn. Và dân văn phòng có tình tạng béo bụng. Đây là nguyên nhân gây áp lực lên các tĩnh mạch vùng bụng và vùng chậu. Nên có hiện tượng bị trĩ và suy giãn tĩnh mạch thừng tinh ở Nam giới.

2. Táo bón đây là nguyên nhân hàng đầu làm tĩnh mạch suy giãn. Khi phải rặn nhiều, tạo nên 1 áp lực rất lớn lên hệ thống tĩnh mạch vùng thấp. Tình trạng này lâu ngày dẫn đến bệnh trĩ và làm trầm trọng hơn bệnh suy giãn tĩnh mạch.

3. Mặc quần áo bó sát nhất là vùng eo và vùng đùi vì nó cản trở máu về tim tăng nguy cơ suy giãn tĩnh mạch. Nên mặc quần áo không quá bó và có độ co giãn.



4. Đi giày, dép cao gót trọng lượng cơ thể đổ dồn lên 2 chân, làm tăng áp lực lên thành mạch, cản trở sự lưu thông máu trở về tim. Làm máu ứ trong lòng mạch gây suy giãn Tĩnh mạch. Và sau 1 ngày phải vật lộn với đôi dép cao gót các bạn sẽ thấy phần bắp chân tê bì, kiểu kiến bò ở trong chân rất khó ngủ. Nếu gặp hiện tượng này thì bạn nên ngâm chân bằng nước gừng hoặc nước muối ấm trước khi đi ngủ thì sẽ có giấc ngủ ngon. Và nếu tính chất công việc là phải ngồi lâu và đứng lâu thì các bạn nên uống sản phẩm phòng ngừa suy giãn tĩnh mạch có thành phần từ hạt Dẻ ngựa, và Diosmin, và Rutin từ hoa hòe để bảo vệ Tĩnh mạch.

5. Ngồi vắt chéo chân ngăn cản sự lưu thông máu.

6. Nhu cầu làm đẹp ở phụ nữ là không có giới hạn đặc biệt phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh sử dụng những sản phẩm có nồng độ Estrogen cao làm thay đổi lưu lượng tuần hoàn, dễ tạo cục máu đông và làm tăng nguy cơ suy giãn tĩnh mạch. Bên cạnh đó thuốc tránh thai và những sản phẩm ngừa mụn làm đẹp da cũng có nồng độ Estrogen cao.

HẬU QUẢ KHI KHÔNG ĐIỀU TRỊ KỊP THỜI:




Suy giãn tĩnh mạch ít nguy hiểm đến tính mạng, gây khó chịu, đau đớn, và làm cho đôi chân mất thẩm mỹ trở nên xấu xí.

Biến chứng nguy hiểm nhất của bệnh là hình thành cục máu đông trong lòng tĩnh mạch gây tắc mạch máu tại chỗ hoặc di chuyển theo dòng máu gây tắc mạch chỗ khác, nguyên nhân dẫn đến các bệnh tim mạch. Nghiêm trọng nhất là gây tắc mạch phổi dẫn đến tử vong.

Khi có những dấu hiệu như: đứng hoặc ngồi lâu thấy tê chân, đi giày cao gót đau chân, phần bắp chân tê mỏi, phần mắt cá chân và sau khoeo chân có những tĩnh mạch li ti nổi lên thì các bạn nên đi chụp Doppler để xac định mình có bị Suy giãn Tĩnh mạch không. Bệnh Suy giãn TĨnh mạch điều trị sớm thì hiệu quả rất cao và sẽ không có những tĩnh mạch mất tính đàn hồi có màu tím, xanh nổi lên dưới da.

Suy giãn tĩnh mạch là căn bệnh xã hội, tiến triển âm thầm và kéo dài, hãy phát hiện và điều trị sớm đừng để đến 1 ngày ngắm mình trong gương bạn phải thốt lên rằng: sao chân tôi xấu thế, nó già cỗi và trông nó thật đáng sợ.